Tuy không gây nguy hiểm nhưng với bản chất mạn tính, thường xuyên tái đi tái lại, hội chứng ruột kích thích gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Bài viết được viết bởi ThS. BS Mai Viễn Phương – Trưởng đơn nguyên Nội soi tiêu hóa – Khoa Khám bệnh & Nội khoa – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park.
Việc suy giảm năng suất lao động cũng như chi phí liên quan điều trị cũng tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế. Phương pháp điều trị chủ yếu cho hội chứng ruột kích thích là điều trị triệu chứng kết hợp với điều chỉnh các yếu tố nguy cơ làm khởi phát triệu chứng như chế độ sinh hoạt, chế độ ăn cũng như các vấn đề tâm thần kinh đi kèm. Tuy nhiên, quá trình điều trị hội chứng ruột kích thích thường kéo dài, khó dứt điểm và dễ tái phát khi ngưng điều trị. Vì thế các nhà nghiên cứu và lâm sàng vẫn không ngừng cố gắng tìm ra các phương pháp chẩn đoán và điều trị hiệu quả hơn cho hội chứng ruột kích thích.
Những thay đổi ngoại biên trong hội chứng ruột kích thích
Bên cạnh những thay đổi về cơ quan trung ương thì những thay đổi ngoai biên cũng đóng góp quan trọng vào cơ chế bệnh sinh, và sau đó những thay đổi này lại dẫn đến tăng nhạy cảm nội tạng thông qua trục não – ruột.
Thay đổi về mật độ tế bào thần kinh và biểu hiện thụ thể.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra sự tăng số lượng sợi thần kinh ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích so với nhóm chứng, đặc biệt là những sợi thần kinh biểu hiện thụ thể cho chất P và thụ thể tiềm năng vanilloid loại 1 (TRPV-1). Các nghiên cứu khác đã ghi nhận liên quan đến thụ thể cannabinoid và thụ thể được kích hoạt bởi protease (PARs).
Tính thấm của ruột
Tính thấm của ruột liên quan đến sự biểu hiện giảm phân bố của các protein liên kết chặt trong tế bào ở đại tràng và hỗng tràng của bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích thể tiêu chảy. Tăng tính thấm ruột có thể đóng một vai trò trong sự tương tác giữa stress, kích hoạt miễn dịch, rối loạn vi sinh vật đường ruột và sự nhạy cảm quá mức trong hội chứng ruột kích thích. Độ thấm tăng do stress liên quan đến sự thay đổi về số lượng tế bào niêm mạc, bao gồm tăng số lượng và kích hoạt tế bào mast, quá trình này cũng được điều tiết bởi CRF, đặc biệt là trong mô hình chuột bị tách khỏi mẹ của sự nhạy cảm quá mức nội tạng. Tăng độ thấm cũng có thể liên quan đến vi sinh vật đường ruột, có thể thông qua khả năng của vi khuẩn giải phóng protease và kích hoạt PARs.
Nhu động ruột
Sự thay đổi trong nhu động ruột từ lâu đã được công nhận là yếu tố gây ra hội chứng ruột kích thích. Người bệnh bị hội chứng ruột kích thích tăng vận động ở trạng thái nhịn ăn, trong phản ứng với bữa ăn và phản ứng với cholecystokinin CCK-8. Mặc dù quá trình vận chuyển khác nhau giữa các phân nhóm thói quen đi tiêu, nhưng bất thường vận chuyển có nhiều khả năng xuất hiện ở những bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích thể tiêu chảy. Trong một nghiên cứu sử dụng phương pháp ghi đồ thị quá trình di chuyển qua đại tràng được đánh giá vào lúc 24 và 48 giờ nhận thấy gia tăng 48% ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích thể tiêu chảy và bị trì hoãn ở 21% bệnh nhân hội chứng ruột kích thích thể táo bón.
Tăng cường hoạt động miễn dịch
Tăng cường hoạt động miễn dịch được xem là đóng một vai trò trong cơ chế bệnh sinh của hội chứng ruột kích thích thông qua ảnh hưởng đến sự nhạy cảm nội tạng và chức năng của biểu mô ruột. Bằng chứng mạnh mẽ nhất đến từ bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích hậu nhiễm trùng. Trong hội chứng ruột kích thích hậu nhiễm trùng, các nghiên cứu đã cho thấy tăng số lượng của tế bào lympho T trong lớp mô đệm so với nhóm kiểm soát, và tăng biểu hiện của cytokine tiền viêm (IL)-1β.Tế bào mast là nhóm tế bào miễn dịch được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất trong hội chứng ruột kích thích. Vai trò giả định của tế bào mast trong hội chứng ruột kích thích là tăng sự nhạy cảm ngoại biên thông qua việc giải phóng histamin.
Trong một nghiên cứu, tế bào mast được quan sát thấy ở gần với các nơron cảm giác được có liên quan với tăng tần suất của cảm giác đau bụng và khó chịu. Một nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của stress lên nhạy cảm nội tạng của chuột sau khi nhiễm C. rodentium, 21 ngày sau khi nhiễm trùng, một nhóm chuột đã được chịu đựng stress tránh nước trong 9 ngày. Những con chuột này có mức corticosterone và epinephrine trong huyết thanh cao gấp đôi và gấp ba so với chuột chỉ tiếp xúc với nhiễm trùng mà không có stress. Những phát hiện này gợi ý rằng nhiễm trùng trước đó và stress mạn tính dẫn đến sự thay đổi trong trục não–ruột được đặc trưng bởi sự tăng cảm giác của nơron ngoại biên đối với các chất trung gian liên quan đến cả stress và viêm.
Acid mật
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy tăng nhạy cảm nội tạng gây ra bởi acid mật liên quan đến việc kích hoạt thụ thể farnesoid X trên tế bào mast, dẫn đến tăng biểu hiện yếu tố tăng trưởng thần kinh và biểu hiện TRPV-1 tăng lên sau đó trên mặt lưng tế bào thần kinh hạch rễ. Tiêu chảy do acid mật xuất hiện ở khoảng 25% bệnh nhân hội chứng ruột kích thích thể tiêu chảy. Acid mật đại tràng tương quan với trọng lượng phân, ngay cả ở những bệnh nhân không có biểu hiện rõ ràng kém hấp thu acid mật. Acid mật cũng có thể có liên quan đến một nhóm nhỏ bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích thể táo bón bị giảm tổng lượng acid mật và giảm acid deoxycholic trong phân.
Serotonin
Phần lớn serotonin được tìm thấy trong ruột, chủ yếu được lưu trữ trong các tế bào nội tiết ruột, nhưng cũng được chứa trong các tế bào thần kinh tiết serotonin của đám rối thần kinh ruột. Tế bào nột tiết ruột giải phóng serotonin để đáp ứng với nhiều loại kích thích như sự căng cơ học. Bằng chứng ủng hộ vai trò của việc xử lý serotonin và truyền tín hiệu trong các thay đổi về vận động và vận chuyển liên quan đến hội chứng ruột kích thích. Các nghiên cứu đã cho thấy nồng độ 5-HT tăng lên trong huyết tương của bệnh nhân hội chứng ruột kích thích so với nhóm chứng, đặc biệt là trong hội chứng ruột kích thích thể tiêu chảy. Vận chuyển đại tràng tương quan với mức độ 5-HT ở bệnh nhân bị hội chứng ruột kích thích, với nồng độ tăng cao dự đoán quá trình vận chuyển tăng tốc.
Hệ vi sinh đường ruột
Trong một phân tích tổng hợp của 24 nghiên cứu, vi sinh vật của bệnh nhân hội chứng ruột kích thích so với nhóm chứng có sự tăng cường về số lượng của họ Enterobacteriaceae (ngành Proteobacteria), họ Lactobacillaceae, và chi Bacteroides, và giảm số lượng của Clostridiales, chi Faecalibacterium (bao gồm Faecalibacterium prausnitzii), và chi Bifidobacterium. Vi sinh vật liên quan với khả năng vận động và nhu động ruột trong mô hình động vật như chuột không vi khuẩn có hiện tượng chậm làm trống dạ dày, vận chuyển ruột, và được giải quyết khi khi số lượng vi sinh ở ruột bình thường.
Người ta nghĩ rằng những hiệu ứng này liên quan đến chất chuyển hóa vi khuẩn có hoạt tính thần kinh, nhưng bằng chứng trực tiếp hỗ trợ giả thuyết này là thiếu. Hệ vi sinh vật ruột có thể điều chỉnh tổng hợp serotonin từ các tế bào nội tiết ruột, hỗ trợ điều tiết vận động của đường tiêu hóa theo con đường phụ thuộc vào vi khuẩn–neuropeptide. Những thay đổi trong vi sinh vật, lần lượt, có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Trong một nghiên cứu nhận thấy những thay đổi trong vi sinh vật được liên kết với những cấp độ biểu hiện thay đổi của yếu tố tăng trưởng thần kinh có nguồn gốc từ não và cũng có bằng chứng sơ bộ cho thấy tâm trạng ảnh hưởng đến vi sinh vật ruột và ngược lại ở người.
Tài liệu tham khảo
1. Drossman DA. Functional Gastrointestinal Disorders: History, Pathophysiology, Clinical Features and Rome IV. Gastroenterology. Feb 19 2016;doi:10.1053/j.gastro.2016.02.032
2. Oka P, Parr H, Barberio B, Black CJ, Savarino EV, Ford AC. Global prevalence of irritable bowel syndrome according to Rome III or IV criteria: a systematic review and meta-analysis. The lancet Gastroenterology & hepatology. Oct 2020;5(10):908-917. doi:10.1016/s2468-1253(20)30217-x
3. Quach DT, Vu KT, Vu KV. Prevalence, clinical characteristics, and management of irritable bowel syndrome in Vietnam: A scoping review. JGH open : an open access journal of gastroenterology and hepatology. Nov 2021;5(11):1227-1235. doi:10.1002/jgh3.12616
4. Kennedy PJ, Clarke G, Quigley EM, Groeger JA, Dinan TG, Cryan JF. Gut memories: towards a cognitive neurobiology of irritable bowel syndrome. Neuroscience and biobehavioral reviews. Jan 2012;36(1):310-40. doi:10.1016/j.neubiorev.2011.07.001
Các bài viết được tham khảo từ nhiều nguồn online. Sau đó được các kiểm duyệt viên kiểm duyệt lại. Nếu có gì sai sót xin được nhận sự góp ý của mọi người.
Các nguồn tham khảo: dieutri.vn; pharmacity.vn; medlatec.vn; vinmec.com; hellobacsi.com
Các bài viết chỉ mang tính tham khảo, mọi người hãy hỏi ý kiến các chuyên gia để có thể xem xét phù hợp với thể trạng, cơ địa của bản thân.