Ở giai đoạn đầu, ung thư ruột kết (còn được gọi là ung thư đại tràng), là sự tăng trưởng tế bào ung thư trong ruột kết hoặc trực tràng, có thể không có triệu chứng. Các triệu chứng thường xuất hiện khi ung thư đã lan rộng.
Lưu trữ danh mục: Bụng
Hội chứng ruột kích thích (HCRKT) là một trong những rối loạn tiêu hóa phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Đây là một rối loạn tiêu hóa chức năng đặc trưng bởi đau bụng kèm thay đổi tính chất phân hoặc tần suất đi tiêu, ngoài ra còn thường kèm đầy hơi, chướng bụng.
Ung thư phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư và khoảng 50% bệnh nhân ung thư phổi có thể phát triển di căn xa ở giai đoạn đầu. Gan, tuyến thượng thận, xương, não và hạch bạch huyết là những vị trí di căn phổ biến của ung thư phổi. Tuy nhiên, di căn đến đường tiêu hóa rất hiếm và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ di căn đường tiêu hóa được phát hiện khi khám nghiệm tử thi là khoảng 4,7% -14%, với tỷ lệ mắc khoảng 1,77% tại phòng khám và các trường hợp di căn đến dạ dày hiếm hơn nhiều.
Ung thư dạ dày thường phát triển chậm trong nhiều năm trước khi gây ra các triệu chứng. Phần lớn các ca ung thư dạ dày ở Hoa Kỳ được chẩn đoán sau khi chúng đã lan ra ngoài dạ dày.
Giả u mỡ đại tràng (ở ruột già) là một tình trạng hiếm gặp và lành tính. Về mặt nội soi, các tổn thương đại tràng xuất hiện dưới dạng các mảng trắng hoặc vàng hơi nhô lên, thường nhiều mảng và đôi khi hợp lưu.
Viêm trực tràng truyền nhiễm là một chẩn đoán ngày càng tăng ở những bệnh nhân có quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Chẩn đoán phân biệt giữa các nguyên nhân truyền nhiễm (C. trachomatis , lậu, HSV và giang mai ) và các nguyên nhân không truyền nhiễm (bệnh viêm ruột và ung thư) là khó khăn trong nhiều trường hợp.
Ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC) rất dễ di căn ở giai đoạn đầu của bệnh. Tuy nhiên, dạ dày là vị trí di căn không phổ biến ở ung thư phổi tế bào nhỏ và chỉ có một số ít trường hợp di căn loại này được báo cáo. Do đó, di căn dạ dày của ung thư phổi tế bào nhỏ chưa được mô tả một cách có hệ thống và dễ bị bỏ sót và chẩn đoán sai.
Giả u mỡ đại tràng (CP) có thể gây ra thách thức trong chẩn đoán do tỷ lệ mắc bệnh hiếm gặp và nhiều biểu hiện, hầu hết trong số đó không quen thuộc với bác sĩ nội soi. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của bệnh vẫn chưa được làm rõ hoàn toàn.
Viêm trực tràng do Chlamydia, một bệnh lây truyền qua đường tình dục không phổ biến, biểu hiện là tăng sản nang bạch huyết trực tràng trong quá trình nội soi.
Barrett thực quản (BE) được coi là tình trạng tiền ung thư biểu mô thực quản. Tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của bệnh này đang gia tăng trong dân số nói chung. Các nghiên cứu báo cáo rằng hội chứng chuyển hóa (MS) hoặc đái tháo đường (DM) có liên quan đến nguy cơ mắc BE tăng cao. Nghiên cứu hiện tại là đánh giá và hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa MS/DM và BE.